13 Câu hỏi đáp tình huống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ xem

Tình huống 1: Do nghi ngờ vợ ngoại tình với một đồng nghiệp ở cơ quan, trong những lần hai vợ chồng cãi nhau, anh A thường nói to cho bà con xung quan nghe thấy.

Không chịu nổi cách hành xử của chồng, vợ anh đã bỏ về nhà bố, mẹ đẻ sống ly thân, anh A còn viết thư nặc danh gửi đến cơ quan vợ, photo, phát tán thư ở khu dân cư nơi vợ chồng anh cư trú nhằm hạ thấp danh dự, nhân phẩm của chị.

Hành vi nêu trên của anh A có phải là hành vi bạo lực gia đình không? Sẽ bị pháp luật xử lý như thế nào?

Hành vi nói xấu vợ với những người xung quanh, phát tờ rơi nói xấu hạ nhục danh dự vợ của anh A là hành vi cố ý xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình được lao lý tại điểm b khoản 1 Điểu 2 Luật Phòng chống đấm đá bạo lực gia đình .

Hành vi này bị xử phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng theo lao lý tại điểm a, b khoản 2. Điều 11 Nghị định 110 / 2009 / NĐ – CP. Ngoài ra, anh còn bị vận dụng hình thức phạt bổ trợ là tịch thu tang vật, phương tiện đi lại vi phạm là các tờ rơi có nội dung nói xấu vợ và buộc phải công khai minh bạch xin lỗi vợ .

Tình huống 2: Sau khi ly hôn, chị H được quyền nuôi 2 con nhỏ, còn anh T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng cho các con theo quyết định của Toà án.

Tuy nhiên, nhiều tháng qua anh T không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mặc dù chị H đã nhiều lần yêu cầu. Vậy hành vi của anh T có vi phạm pháp luật hay không? Nếu vi phạm thì bị xử lý như thế nào?

Anh T không chịu thực thi nghĩa vụ và trách nhiệm cấp dưỡng cho các con theo quyết định hành động của Toà án là hành vi vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình.

Theo pháp luật tại Điều 14 của Nghị định 110 / 2009 / NĐ-CP thì đây còn là hành vi đấm đá bạo lực gia đình. Hành vi này bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng .

Tình huống 3: Ông V là người mang nặng tư tưởng gia trưởng, luôn quản lý chặt chẽ nguồn tài chính của gia đình. Mọi chi tiêu của vợ và con cái đều do ông quyết định và hạn chế tối đa. Nhà có xe đạp nhưng con đi học cách nhà 5km ông không cho sử dụng xe đạp.

Ông quản lý chặt chẽ tiền bạc, buộc vợ và các con phải phụ thuộc vào mình về tiền bạc và tài sản để khẳng định quyền gia trưởng của mình. Hành vi của ông V có vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình hay không? Nếu vi phạm thì bị xử phạt như thế nào?

Hành vi của ông V vi phạm pháp lý về phòng chống đấm đá bạo lực gia đình tại điểm a, b khoản 1 Điều 16 Nghị định số 110 / 2009 / NĐ-CP :Không cho thành viên trong gia đình sử dụng gia tài chung vào mục tiêu chính đáng ( không cho con dùng xe đạp điện đến trường ) .

Kiểm soát ngặt nghèo nguồn kinh tế tài chính của thành viên trong gia đình hoặc nguồn gia tài chính chung của gia đình tạo ra cho thành viên sự phụ thuộc vào về kinh tế tài chính ( quản trị ngặt nghèo tài lộc, buộc vợ và các con phải nhờ vào vào mình ) .

Theo điểm a và b khoản 1, Điều 16 Nghị định số 110 / 2009 / NĐ-CP, ông V sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đ đến một triệu đ vì có 2 hành vi đấm đá bạo lực về kinh tế tài chính so với thành viên gia đình .

Tình huống 4: Xót xa khi thấy chồng đánh con vì điểm kém trong học tập và phạt con không cho ăn cơm, chị N định chạy đi báo Công an xã nhưng đã bị chồng chặn lại. Chị hô hoán lên nhờ hàng xóm giúp đỡ.

Khi Công an xã đến thì chồng chị khoá cửa lại không cho ai vào và nói rằng đây là việc riêng của gia đình anh, không ai được can thiệp vào. Hành vi nêu trên của chồng chị N có vi phạm pháp luật không và bị xử phạt như thế nào?

Hành vi nêu trên của chồng chị N là vi phạm pháp lý tại điểm a khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình “ Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe thể chất, tính mạng con người ” ; vi phạm khoản 5 Điều 8 Luật Phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình “ Cản trở việc phát hiện, khai báo và giải quyết và xử lý hành vi đấm đá bạo lực gia đình ” .

Chồng chị N sẽ bị xử phạt vì hành vi đấm đá bạo lực gia đình với trẻ nhỏ. Đồng thời, anh cũng sẽ bị giải quyết và xử lý về hành vi cản trở người khác phát hiện, khai báo hành vi đấm đá bạo lực gia đình và cản trở việc giải quyết và xử lý hành vi đấm đá bạo lực gia đình theo điểm c, khoản 1, điều 20 Nghị định số 110 / 2009 / NĐ-CP .

Mức phạt so với hành vi cản trở của anh sẽ bị phạt từ 300.000 đ đến 500.000 đ .

Tình huống 5: Chị K bị chồng đánh nên đã bỏ trốn đến trạm y tế xã, một nơi đã được chính quyền địa phương thông báo là địa chỉ tin cậy tại cộng đồng giúp những người bị bạo lực gia đình đến lánh nạn.

Tuy nhiên sau ba ngày chữa trị vết thương tại đây, trạm trưởng yêu cầu chị K phải thanh toán tiền chữa trị và tiền ăn ở. Hành vi trên của ông trạm trưởng y tế có vi phạm pháp luật không?

Theo lao lý của Luật Phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình, ngân sách khám chữa bệnh cho nạn nhân bị đấm đá bạo lực gia đình khi đến địa chỉ tin cây công đồng tạm lánh sẽ do Bảo hiểm y tế chi trả còn ngân sách hoạt động và sinh hoạt do Quỹ bảo trợ tại địa phương trả .

Việc nhu yếu giao dịch thanh toán ngân sách hoạt động và sinh hoạt của nạn nhân ở Địa chỉ đáng tin cậy hội đồng nói trên là vi phạm pháp lý về phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình tại điểm b khoản 1 Điều 23 Nghị định số 110 / 2009 / NĐ-CP hoàn toàn có thể bị phạt vi phạm hành chính với mức phạt từ 100.000 đ đến 300.000 đ theo pháp luật tại khoản 2 điều 23 Nghị định số 110 / 2009 / NĐ-CP .

Tình huống 6. Hai vợ chồng ông X và bà H có với nhau 3 người con; ông X không cho các con của mình đi học và thường bắt buộc 2 người con của mình là cháu Đ (12 tuổi) và cháu V (9 tuổi) đi làm thuê, làm mướn trong làng để có tiền đưa cho ông mua rượu uống hàng ngày.

Nhiều lần, phần vì mệt mỏi, phần vì đói, cũng có khi phải làm việc quá sức nên hai bé bị bệnh và phải nhập viện điều trị. Hàng xóm gần nhà ông đã đến khuyên can nhưng ông không chịu nghe và cho rằng con của ông, do ông nuôi khôn lớn thì ông có quyền sai bảo. Đây có phải là hành vi bạo lực gia đình không?

Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007 lao lý đấm đá bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có năng lực gây tổn hại về sức khỏe thể chất, ý thức, kinh tế tài chính so với thành viên khác trong gia đình .

Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình lao lý các hành vi đấm đá bạo lực gia đình, trong đó có hành vi cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, góp phần kinh tế tài chính quá năng lực của họ ; trấn áp thu nhập của thành viên gia đình nhằm mục đích tạo ra thực trạng phụ thuộc vào về kinh tế tài chính .

Như vậy, so sánh với trường hợp nêu trên, xác lập hành vi của ông X so với hai con của ông ( cháu Đ, 12 tuổi và cháu V, 09 tuổi ) là hành vi đấm đá bạo lực gia đình .

Tình huống 7. Tại địa phương nơi tôi sinh sống, anh A thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn rồi về nhà, tuy không đánh đập vợ nhưng thường xuyên chửi bới, xúc phạm, thậm chí lăng mạ vợ và cha mẹ vợ.

Anh A cũng cấm đoán, thậm chí không cho phép cha mẹ vợ (ông bà ngoại) thăm cháu khi chưa được sự đồng ý của anh.

Đây có phải là hành vi bạo lực gia đình; chị B (vợ anh A) có quyền yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp, ngăn chặn và bảo vệ hay không?

Tại Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007 pháp luật các hành vi đấm đá bạo lực gia đình ; trong đó có pháp luật hành vi “ lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xâm phạm danh dự, nhân phẩm ” ; hành vi “ cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực đè nén tiếp tục về tâm ý gây hậu quả nghiêm trọng ” ; hành vi “ ngăn cản việc triển khai quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu ; giữa cha, mẹ và con ; giữa vợ và chồng ; giữa anh, chị, em với nhau ” là các hành vi trong số những hành vi đấm đá bạo lực gia đình .

Như vậy, so sánh với trường hợp nêu trên, xác lập anh A đã có hành vi đấm đá bạo lực gia đình so với chị B ( vợ của anh ).

Theo Điều 5 Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007, chị B có quyền nhu yếu cơ quan, tổ chức triển khai, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe thể chất, tính mạng con người, nhân phẩm, quyền và quyền lợi hợp pháp khác của mình ; được nhu yếu cơ quan, người có thẩm quyền vận dụng giải pháp ngăn ngừa, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo lao lý của Luật này và các quyền khác theo pháp luật của pháp lý .

Đồng thời, theo Điều 18 Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007, khi chị bị đấm đá bạo lực gia đình, người phát hiện đấm đá bạo lực gia đình cần kịp thời báo tin cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu hội đồng dân cư nơi xảy ra đấm đá bạo lực.

Các cơ quan này khi nhận được tin báo, sẽ có nghĩa vụ và trách nhiệm kịp thời giải quyết và xử lý hoặc yêu cầu, nhu yếu cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết và xử lý và trong trường hợp thiết yếu vận dụng giải pháp bảo vệ người báo tin đấm đá bạo lực gia đình .

Tình huống 8. Chị H là công nhân làm trong xí nghiệp thuộc lĩnh vực may mặc. Chồng của chị là anh T (thợ hồ). Với đồng lương thấp nhưng anh lại thích rủ rê nhậu nhẹt nên sau khi hết giờ làm, anh T thường uống rượu rồi mới về nhà và hay mắng chửi chị H, thậm chí lăng mạ, xúc phạm cha, mẹ của chị.

Một lần, như thường lệ, trong người sẵn có men, về nhà lại thấy con gái (là bé Y 3 tuổi) quấy, khóc nên anh T bực bội, chửi chị H là không biết dạy con. Chị H nói lại vài câu, anh T bực bội vì cho rằng chị không tôn trọng chồng nên ra tay đánh chị bầm tím mắt, chảy máu miệng và sưng to vùng mặt.

Vừa đánh anh vừa đuổi chị và con ra khỏi nhà, đồng thời đe dọa nếu quay về nhà, anh sẽ giết chết cả hai mẹ con. Chị H vừa buồn tủi, vừa sợ hãi nên vội bế bé Y chạy ra khỏi nhà và ở nhờ nhà cha mẹ của chị.

Trong trường hợp này, chị H có quyền yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp, ngăn chặn và bảo vệ hay không? Chị cần phải làm gì để được cơ quan chức năng can thiệp, ngăn chặn và bảo vệ?

Căn cứ Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, xác định anh T đã có hành vi bạo lực gia đình đối với vợ của anh (là chị H); do vậy, chị H có quyền yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp, ngăn chặn và bảo vệ.

Cụ thể, bên cạnh các quyền được quy định tại Điều 5 Luật phòng, chống bạo lực gia đình (đó là quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này; được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật; được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này; các quyền khác theo quy định của pháp luật); chị H còn có quyền yêu cầu UBND cấp xã nơi chị cư trú áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc.

Bên cạnh đó, Điều 9 Nghị định số 08/2009 / NĐ-CP ngày 04/02/2009 của nhà nước lao lý cụ thể và hướng dẫn thi hành một số ít điều của Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình, pháp luật : quản trị Ủy Ban Nhân Dân cấp xã nơi xảy ra đấm đá bạo lực gia đình quyết định hành động cấm người gây đấm đá bạo lực gia đình tiếp xúc với nạn nhân đấm đá bạo lực gia đình trong thời hạn không quá 03 ngày, khi có đủ các điều kiện kèm theo sau đây :

Thứ nhất, có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, của người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình.

Thứ hai, đã có hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe dọa tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình. Về nội dung này, khoản 3 Điều 9 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định hành vi trên được xác định khi có một trong các căn cứ sau đây: có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về việc khám và điều trị thương tích do hành vi bạo lực gia đình gây ra. Có dấu vết thương tích trên cơ thể nạn nhân có thể nhận thấy rõ bằng mắt thường hoặc có dấu hiệu rõ ràng về hoảng loạn tinh thần của nạn nhân bạo lực gia đình. Có chứng cứ chứng minh có sự đe dọa gây tổn hại đến sức khỏe hoặc tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình.

Thứ ba, người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc. Về nội dung này, khoản 3 Điều 9 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định, nơi ở khác nhau bao gồm nhà của người thân, bạn bè, địa chỉ tin cậy hoặc nơi ở khác mà nạn nhân bạo lực gia đình tự nguyện chuyển đến ở.

Tình huống 9. Ông Đ có hành vi bạo lực gia đình đối với vợ của ông là bà K và đã bị Chủ tịch UBND xã nơi vợ chồng ông sinh sống ra quyết định cấm tiếp xúc.

Trong thời gian áp dụng quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch UBND xã, con gái của vợ chồng ông bị bệnh nặng và đang được điều trị tại bệnh viện. Trong trường hợp này, ông Đ có được tiếp xúc với vợ của ông không?

Theo khoản 4 Điều 20 Luật phòng chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007, trong trường hợp gia đình có việc tang lễ, cưới hỏi hoặc các trường hợp đặc biệt quan trọng khác mà người có hành vi đấm đá bạo lực gia đình và nạn nhân đấm đá bạo lực gia đình phải tiếp xúc với nhau thì người có hành vi đấm đá bạo lực gia đình phải báo cáo giải trình với người đứng đầu hội đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân đấm đá bạo lực gia đình .

Cùng với đó, Khoản 6 Điều 9 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định: các trường hợp đặc biệt mà người có hành vi bạo lực gia đình được tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình, sau khi báo cáo với người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân bạo lực gia đình, bao gồm: gia đình có việc tang lễ, cưới hỏi; gia đình có người bị tai nạn, bệnh nặng; tài sản của gia đình bị thiệt hại nặng do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh; những trường hợp khác mà phải tiếp xúc theo phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương.

Như vậy, so sánh với trường hợp nêu trên, do con gái của vợ chồng ông Đ bị bệnh nặng nên theo pháp luật, ông được tiếp xúc với vợ của ông sau khi báo cáo giải trình với người đứng đầu hội đồng dân cư nơi vợ ông cư trú .

Tình huống 10. Anh N và chị V cùng tốt nghiệp đại học và làm việc chung trong một Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh; trong khoảng thời gian học và làm việc, hai anh chị đã phát sinh tình cảm và dọn về sống chung như vợ chồng (chưa đăng ký kết hôn); toàn bộ thu nhập của anh N được Công ty chuyển vào thẻ ATM của anh nên anh đưa luôn thẻ ATM của mình để chị V quản lý.

Thời gian sau này, anh N có tình cảm với một người phụ nữ khác và nhiều lần bị chị V phát hiện.

Do vậy, chị V thường xuyên chửi mắng, lăng mạ và đập phá làm hư hỏng xe máy của anh N. Chị cũng đập vỡ điện thoại iphone của anh N và kiểm soát toàn bộ thu nhập của anh làm cho anh bị lệ thuộc chị về tài chính. Trong trường hợp trên có phải là hành vi bạo lực gia đình?

Tại Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007 pháp luật các hành vi đấm đá bạo lực gia đình ; trong đó có lao lý các hành vi : “ lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xâm phạm danh dự, nhân phẩm ” ; “ chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng gia tài riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc gia tài chung của các thành viên gia đình ” ; “ cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, góp phần kinh tế tài chính quá năng lực của họ ; trấn áp thu nhập của thành viên gia đình nhằm mục đích tạo ra thực trạng nhờ vào về kinh tế tài chính ” là các hành vi trong số những hành vi đấm đá bạo lực gia đình .

Khoản 2 Điều 2 của Luật này đồng thời pháp luật : các hành vi đấm đá bạo lực gia đình nêu trên cũng được vận dụng so với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng .

Như vậy, so sánh với lao lý tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 Luật phòng, chống đấm đá bạo lực gia đình năm 2007, xác lập hành vi của chị V so với anh N là hành vi đấm đá bạo lực gia đình .

Tình huống 11. Vợ chồng anh K có con gái tên Y (đủ 13 tuổi). Sát cạnh nhà anh là gia đình anh V (gia đình anh V có con trai tên X, 21 tuổi và con gái tên D, 14 tuổi). Hai gia đình là hàng xóm rất thân thiết, cháu Y và cháu D lại học cùng trường nên chơi với nhau rất thân. Vợ chồng anh K là công chức còn vợ chồng anh V buôn bán trái cây tại Chợ và cháu X phụ giúp cha mẹ công việc này. Nhân dịp nghỉ hè, vợ chồng anh K cho con gái sang chơi và ăn, ở cả ngày bên nhà anh V với cháu D.

Vào đầu một buổi chiều, anh V sai X về nhà lấy thêm hóa đơn và một số vật dụng cần thiết. X về nhà lấy đồ, trên tay cầm lỉnh kỉnh đồ này, thứ kia định bụng đi ra chợ luôn, nhưng lại quay vào mở cửa phòng của em gái (là D) để ngó nghiêng tình hình của hai em, thì thấy em gái đã ngủ nhưng không thấy Y.

Đi xuống khu nhà bếp, X thấy Y vừa ra khỏi cửa nhà vệ sinh; X tiến đến hôn nhẹ vào tóc của Y nhưng Y né tránh. Sau đó, lấy cớ tay cầm cầm đồ đạc lỉnh kỉnh, X nhờ Y mang giúp một ly nước lên phòng mình ở tầng trên cùng.

Vừa vào phòng, X liền cầm tay Y giữ lại và đóng sập cửa, bấm khóa; thấy Y phản ứng, năn nỉ, kêu khóc, X sợ làm D tỉnh giấc nên đã tát mạnh vào mặt của Y. X đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục với Y.

Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này, X sẽ bị xử lý như thế nào?

Theo pháp luật tại Khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm năm ngoái pháp luật : người nào triển khai một trong các hành vi : dùng vũ lực, rình rập đe dọa dùng vũ lực hoặc tận dụng thực trạng không hề tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực thi hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ ; Giao cấu hoặc triển khai hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi ; thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Như vậy, so sánh với trường hợp nêu trên, X hoàn toàn có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi .

Ngoài ra, trong tình huống nêu trên, theo pháp luật tại Khoản 24 của Điều 1 Luật sửa đổi, bổ trợ một số ít điều của Bộ luật hình sự năm 2017 :- Trường hợp X triển khai hành vi quan hệ tình dục với Y và làm Y có thai hoặc gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe thể chất hoặc gây rối lọạn tinh thần và hành vi của Y mà tỉ lệ tổn thương khung hình từ 31 % đến 60 % thì X sẽ bị xem xét, giải quyết và xử lý phạt tù từ 12 năm đến 20 năm ;- Trường hợp X thực thi hành vi quan hệ tình dục với Y và gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe thể chất hoặc gây rối lọạn tinh thần và hành vi của Y mà tỉ lệ tổn thương khung hình 61 % trở lên thì X sẽ bị xem xét, giải quyết và xử lý phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình .

Tình huống 12. M (19 tuổi), bỏ học và làm công phụ hồ. Ngoài thời gian đi làm, buổi tối M thường chơi game online ở tiệm internet hoặc uống cà phê ở một quán nhỏ gần khu trọ. Tại đây, M quen em P (15 tuổi) bỏ học và là phục vụ quán.

Những lúc quán vắng khách, P và M thường hay chuyện trò với nhau, do có phần cùng cảnh ngộ nên đã nảy sinh tình cảm yêu đương. Nhiều lần, M chờ P hết giờ làm việc tại quán, đã rủ P về phòng trọ của mình. Tại đây, cả hai đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục.

Chủ quán (là bà S) đã phát hiện và báo với cha mẹ của P. Cha mẹ P trình báo cơ quan có thẩm quyền, đồng thời đề nghị xem xét, xử lý M. Trong trường hợp này M có phạm tội không và phạm tội gì?

Theo pháp luật tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự năm năm ngoái lao lý : người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực thi hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp pháp luật tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm .

Như vậy, so sánh với trường hợp nêu trên, nếu có đủ địa thế căn cứ để chứng tỏ M đã triển khai quan hệ tình dục với P. thì M hoàn toàn có thể bị cơ quan chức năng xem xét, giải quyết và xử lý phạt tù từ 01 năm đến 05 năm về tội giao cấu hoặc triển khai hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi .

Ngoài ra, trong tình huống nêu trên, nếu có đủ địa thế căn cứ xác lập M nhiều lần thực thi hành vi này với P. hoặc làm cho P. có thai thì theo pháp luật tại Khoản 2 Điều 145, M sẽ bị giải quyết và xử lý phạt tù từ 03 đến 10 năm về tội giao cấu hoặc triển khai hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi .

Tình huống 13. Q sinh ra ở Quảng Nam và vào TP. HCM làm thuê từ năm 19 tuổi. Công việc của Q là trình diễn thời trang tại một quán Bar trong thành phố vào các buổi tối. Trong khu nhà Q ở trọ, có mẹ con em L ở sát phòng và cùng quê với Q.

Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên L tuy mới 15 tuổi nhưng đã nghỉ học và theo mẹ vào thành phố để làm thuê kiếm sống. Thấy L dáng người mảnh khảnh, cao ráo, trắng trẻo lại ưa nhìn, những lúc rảnh rỗi, Q thường bắt chuyện làm quen với L, và rủ L đi ăn, uống, vui chơi.

Trong những lúc trò chuyện, Q thường hay nhắc đến công việc của mình tại quán Bar kèm theo những lời khen về mức thu nhập cũng như sự yêu thích của mình đối với công việc, để dụ dỗ, lôi kéo L.

Những lúc cùng L đi ăn tối và uống cà phê, Q thường lấy cớ địa điểm ăn, uống gần với nơi làm việc của mình, Q đã dẫn L vào quán Bar và thường là sau vài phút trò chuyện với người quản lý, Q kéo L vào một căn phòng có ánh đèn mờ ảo và trên sân khấu là một người con gái ăn mặc thiếu vải, đang uốn éo bên cây cột để trình diễn những động tác khiêu dâm, bên dưới là đám đông hò hét rất phấn khích.

Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật, Q có vi phạm pháp luật không?

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Như vậy, so sánh với trường hợp nêu trên, Q. đã vi phạm pháp lý và sẽ bị cơ quan chức năng xem xét, giải quyết và xử lý phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm về tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục tiêu khiêu dâm .

Bên cạnh đó, nếu có đủ địa thế căn cứ xác lập Q. nhiều lần lôi kéo, dụ dỗ L trực tiếp tận mắt chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm như trên thì theo pháp luật tại Khoản 2 Điều 147, M hoàn toàn có thể bị giải quyết và xử lý phạt tù từ 03 năm đến 07 năm về tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục tiêu khiêu dâm.

Scroll to Top