Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (anh ngữ: Obsessive-Compulsive Disorder, kí hiệu là OCD) là một rối loạn tâm lý có đặc tính mãn tính, chỉ dấu thông dụng của bệnh là vì ý định ám ảnh, lo sợ không có nguyên nhân chính đáng và phải thực hiện các hành vi có tính chất bắt buộc để giảm giảm căng thẳng, đây chính là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến stress. Bệnh còn mang tên khác là loạn ám ảnh cưỡng bức, ám ảnh tâm lý.
Người bị tác động của bệnh có những ý tưởng và hành vi lặp lại một cách vô nghĩa lý và mất kiểm soát ví dụ rửa tay hàng chục lần dù cho tay đã sạch hay dành quá nhiều thời gian để sắp đặt vật dụng trong gia đình quá ngưỡng ngăn nắp thiết yếu.
Nhưng không phải mọi hành động có đặc tính ám ảnh cưỡng chế đều bị coi là biểu hiện của bệnh, ví như phải nghe trò chuyện mới đi ngủ được (ở trẻ em) hoặc các nghi thức tôn giáo đều là các hành động nói đi nói lại nhưng chúng có lợi và không quá gây phiền nhiễu.
Bên cạnh đó nỗi lo lắng vừa phải trong một thời điểm nào đó khi đời sống gặp ngăn cản cũng được biết đến là các xúc cảm thông thường như trong mùa dịch lo âu về sự gọn gàng vệ sinh giúp ích hơn là thái độ bàng quan. Nhưng sẽ là bệnh quả thực nếu nó quá cấp bậc thiết yếu và gây đau đớn.
Cấp bậc của bệnh có thể từ nhẹ đến nặng, nhưng giả sử bị nặng mà không được điều trị sẽ làm thoái hóa khả năng làm việc, học tập hoặc kể cả làm người bệnh khó chịu trong chính căn hộ của bản thân, họ có khả năng mất vài giờ một ngày chỉ để thi hành các hành vi cưỡng chế.
Tuy các biểu hiện tiêu biểu của OCD thường khởi đầu ở lứa tuổi thanh niên hoặc đầu lớn lên, ngoài ra cũng có đến 1/3 khởi phát khi còn nhỏ tuổi kể cả có những đứa bé nhiễm bệnh trước tuổi đi học (nhiều người đã ghi nhận nhiều tình huống OCD trước 2 tuổi).
Ảnh hưởng của bệnh lên đứa bé ở giai đoạn đầu của cuộc đời gây những hậu quả nghiêm trọng cho chúng. Điều trọng yếu là đứa bé cần được nhận ra và điều trị sớm nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực lên sự phát triển.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một Rối loạn của bộ não có nguyên nhân từ sự bất thường trong xử lý dữ liệu do vậy căn bệnh không phải là lỗi của người mắc hoặc biểu hiện của phẩm cách không ổn định, yếu đuối.
NỘI DUNG BÀI VIẾT
Mức độ phổ biến của bệnh
Trong nhiều năm các chuyên viên về đời sống tinh thần cho biết rối loạn ám ảnh cưỡng chế chỉ là một bệnh hiếm tại vì có rất ít người công nhận mình mắc bệnh, sở dĩ như vậy vì dù bệnh gây ra nhiều khó khăn nhưng họ lại tự ti khi phải nói ra mình bị những ý nghĩ và hành động lặp đi lặp lại hành hạ, chuyện này cản trở họ đi chữa bệnh, mang tới thống kê người lâm bệnh không tương xứng với thực tế.
Tính bình quân một người phải đi đến từ 3 đến 4 bác sĩ trong khoảng thời gian 9 năm mới đạt được kiểm tra xác định chính xác và phải mất tới 17 năm để có được các trị liệu đúng đắn từ khi bị bệnh.
Tìm hiểu của Học viện Sức khỏe Tâm thần Hoa Kỳ (NIMH) cung cấp những kiến thức mới chứng tỏ tính phổ biến của bệnh lý này.
Thành quả của NIMH thể hiện rối loạn ám ảnh cưỡng chế tác động đến hơn 2% dân số, chứng tỏ là bệnh này thông dụng hơn bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, loạn hoảng sợ.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế ảnh hưởng đến toàn bộ các quốc gia. Nam và nữ có tỉ lệ mắc bệnh như nhau. Ở Mỹ, OCD ảnh hưởng đến khoảng 2,2 triệu người trưởng thành, còn theo một tìm hiểu khác thì con số này tương đương 3 triệu người từ 18 đến 54 tuổi chiếm 2,3% trong nhóm tuổi đó, bệnh thường đi cùng với rối loạn ăn uống, các rối loạn âu lo khác và phiền muộn.
Hơn 1/2 người bệnh OCD khởi phát triệu chứng một cách đột ngột. 50-70% phát bệnh kể từ lúc có các tổn thương tâm lý như mang thai ngoài ý muốn, bị cưỡng bức tình dục, mất người nhà…
Triệu chứng và tiêu chuẩn chẩn đoán
Một ví dụ về triệu chứng lâm sàng điển hình (Bs. Nguyễn Mạnh Hoàn):
Ám ảnh về sự xâm phạm: ám ảnh này thường là các ý tưởng lặp lại về một hành động nghiêm trọng, tội lỗi, đáng chê trách mà mình có thể hoặc đã mắc phải như một phụ nữ bị dày vò bởi sợ mình nhiều khả năng sau cùng không còn có thể kháng cự lại xung động giết đứa con thân yêu của mình.
Hoặc bị tra tấn bởi một hình ảnh lặp lại trong đầu với nội dung thô tục, dâm ô đáng nguyền rủa và xa lạ với bản thân mình.
Nhiều lúc là những ý nghĩ vô tận, triết lý về những chủ đề, lựa chọn không thể đánh giá được. Ý định do dự về những lựa chọn là nhân tố mấu chốt trong nghiền ngẫm ám ảnh, thường ghép với không còn có thể quyết định những việc tầm thường nhưng cần thiết đời thường.
Ý nghĩ ám ảnh
Những ý nghĩ vô nghĩa lý cứ tái diễn một cách liên tục trong tâm trí bệnh nhân. Thể hiện sự ghê sợ có tính chất hoang tưởng một cách dai dẳng, lo lắng quá mức về gọn gàng vệ sinh hay nhiều điều phải thật lý tưởng là những thể hiện hay gặp.
Dày đặc bệnh nhân bị các ý tưởng lo âu phá quấy ví dụ như ‘cái bát này vẫn chưa sạch nó nên được rửa lại’ , ‘ có vẻ như tôi quên khóa cửa sổ’ hay ‘tôi chắc chắn là mình đã không dán tem vào bì thư’ và tạo ra sự lo lắng cao độ (còn trên thực tế thì bát đã rất sạch, cửa sổ khóa chắc chắn và tem cũng đã dán ở bao thư rồi).
Các ám ảnh thường gặp nhất:
- Sợ bị bẩn
- Sợ gây tổn hại tới người khác
- Sợ mắc sai lầm
- Sợ hành vi của mình không được chấp nhận
- Đòi hỏi tính cân đối và chính xác
- Nghi ngờ quá mức
Hành vi cưỡng chế
Đa số người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế có các hành động tái diễn là hành vi cưỡng chế, có ý nghĩa như sự đáp trả lại những ý định ám ảnh.
Quen thuộc nhất là luôn điều tra và giặt giũ. Các hành động cưỡng chế khác như lưu trữ, sắp đặt lại và đếm (thường xảy ra khi thi hành công tác ép buộc khác như sự điều tra khóa), điều tra hay kể ra những điều đã làm cũng thông dụng.
Những hành động này nói chung là có mục tiêu tránh những hao hụt dành cho ai mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế hoặc các người khác.
Một số người mà hành động cưỡng chế của họ hầu như là một lễ nghi, điều đó giúp họ bớt đi lo âu nhưng điều này chỉ mang tính tạm thời.
Các hành vi cưỡng chế phổ biến:
- Lau chùi và giặt giũ
- Kiểm tra
- Sắp xếp
- Sưu tầm và tích trữ
- Đếm nhiều lần
Người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế đôi chút biết rõ tính chất vô ích của ám ảnh. Chính họ cũng thừa nhận ý nghĩ ám ảnh và hành động cưỡng chế của họ là vô lý (80% người bị OCD cho ám ảnh của bản thân là bất hợp lý).
Nhưng hầu hết họ thiếu hẳn nhận định hiển nhiên về sự ghê sợ của bản thân hoặc thậm chí có đức tin mạnh mẽ rằng những hành động là vì thích đáng.
Những người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế phải tranh đấu rất quyết liệt để xua những ý nghĩ không muốn và hành động cưỡng chế.
Hàng triệu người nhiều khả năng ngăn các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế xuất hiện trong nhiều giờ khi họ ở trong lớp học hay ở cơ quan.
Nhưng qua thời gian đó sự chống trả yếu đi và họ bị chi phối bởi hành động ám ảnh mang đặc tính lễ nghi rất mạnh, nó ảnh hưởng đến toàn thể đời sống của người bệnh và có nhiều lúc khiến họ ít khả năng ở một chỗ nào đó ngoài ngôi nhà của mình.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế trải dài trong vài năm hoặc kể cả nhiều thập kỷ. Các biểu hiện có khả năng giảm độ khốc liệt theo thời gian và đạt độ bền vững dài lâu ở dạng nhẹ nhưng đối với hầu hết bệnh nhân các biểu hiện là mãn tính.
Các rối loạn của rối loạn ám ảnh cưỡng chế là những rối loạn rất độc đáo trong đó có nhiều triệu chứng trùng lặp với OCD. Một số triệu chứng dạng OCD gồm:
1- Rối loạn ăn uống
2- Cưỡng bức cờ bạc
3- Rối loạn hình thái cơ thể (Mặc cảm ngoại hình)
4- Rối loạn tự kỷ
5- Chứng giật nhổ tóc
6- Cưỡng bức mua sắm
7- Chứng ăn cắp vặt
Tiêu chuẩn chẩn đoán
Theo ICD-10, để chẩn đoán chắc chắn, các ý nghĩ ám ảnh hoặc hành vi cưỡng chế hoặc cả hai phải hiện diện hằng ngày trong ít nhất hai tuần lễ liên tiếp, gây khổ sở cho người bệnh hoặc ảnh hưởng đến các sinh hoạt thường ngày. Các triệu chứng ám ảnh phải có những đặc điểm sau đây:
- Người bệnh thừa nhận đó là những ý nghĩ hoặc xung động của chính mình.
- Có ít nhất một ý nghĩ hoặc một hành vi đang được người bệnh tiếp tục chống lại, mặc dù không có kết quả (tuy nhiên có thể kèm theo các triệu chứng khác mà người bệnh không chống lại nữa).
- Ý nghĩ ám ảnh hoặc hành vi cưỡng chế không mang lại một sự thích thú nào cho người bệnh, chú ý rằng sự giảm căng thẳng hoặc lo âu không được coi là thích thú.
- Các ý nghĩ, biểu tượng hoặc xung động phải lặp đi lặp lại và gây khó chịu.
Nguyên nhân
Trước kia mọi người cho rằng rối loạn ám ảnh cưỡng chế là kết quả của kinh nghiệm sống không phù hợp với sự phát triển của nhân tố sinh học.
Thực tiễn thì các bệnh nhân mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế tỏ ra được cải thiện khi sử dụng các loại thuốc ảnh hưởng lên chất dẫn truyền thần kinh serotonin mang tới giả định rằng căn nguyên của bệnh có điều kiện thuộc sinh học thần kinh.
Do đó bệnh lý này không những được quy xem là do phương pháp dạy khi còn nhỏ, sự gọn gàng vệ sinh quá đáng hay luôn tin hoặc nghĩ là các vấn đề bất ổn.
Các nghiên cứu thời nay chú trọng tìm hiểu lí do trong sự liên kết giữa tiềm ẩn sinh học thần kinh, tác động của môi trường và tiến trình nhận thức.
Mới đây mọi người thấy rằng liên cầu khuẩn tan huyết bêta – nhóm a (group a beta hemolytic streptococcus) có mối liên hệ với rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Gen
Nghiên cứu trên những cặp song sinh cho thấy sự liên hệ giữa bệnh lý này và điểm di truyền, căn cứ vào đó gen tác động đến từ 45 đến 65% cặp sinh đôi là trẻ thơ và 27 đến 47% cặp sinh đôi là người lớn, điều đó tức là nếu một người lớn mắc loạn ám ảnh cưỡng chế và họ mang trong mình anh (chị) em song sinh thì nguy cơ người anh (chị) em đó nhiễm bệnh là từ 27 đến 47%.
Không những thế có sự khác lạ lớn giữa song sinh cùng trứng và khác trứng, cặp song sinh cùng trứng cho thấy tỷ lệ cao đáng lưu ý, lên đến 80 đến 87% đối chiếu với cặp sinh đôi không cùng trứng chỉ từ 47 đến 50%, cần để ý rằng song sinh cùng trứng có sự trùng lặp gen cao hơn.
Tính cách
Xét từ khía cạnh tính khí thì người cầu toàn dễ dàng bị mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế (và nhiều rối loạn tâm thần khác) ngoài ra không được lẫn lộn sự khác lạ căn bản giữa họ lý do bởi người cầu toàn nào cũng gặp bệnh tật này, với vài người luôn mong tạo nên tuyệt vời sự khác lạ là ở chỗ hành động mang tính bắt buộc trang phục bình thường vụ một mục tiêu có trị giá như là thành công trong công tác, nó không giống như những ám ảnh và các hành vi mang phẩm chất nghi lễ của người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường không đem lại lợi ích thực tiễn.
Bệnh liên quan
Như đã nói bên trên, rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường đi cùng với bệnh trầm cảm, loạn ăn uống, dùng nhiều chất, rối loạn phẩm cách, thiếu có thể tập trung hoặc một dạng loạn lo âu khác.
Cụ thể tỉ lệ mắc phiền muộn hầu hết trong lượng người bị OCD là khoảng 67%, ám ảnh sợ cộng đồng khoảng 25%. những rối loạn này chung sống với OCD khiến cả việc phán đoán và chữa trị trở thành khó khăn hơn.
Các triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế được xem là có liên lạc với các rối loạn thần kinh . ở người mắc triệu chứng tourette (rối loạn TIC xướng âm kết hợp với TIC vận động – hành động và lời nói có đặc tính không chủ tâm) có khoảng 5 – 7% mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế, trái lại cũng có tới 20-30% bệnh nhân OCD có tiền sử bị các TIC.
Các nhà nghiên cứu nêu ra khả năng là có một gen chung giữa hai rối loạn này. những bệnh khác cũng liên quan đến OCD bao gồm thói giật râu tóc (bị thúc giục giật tóc, lông mi, lông mày…), mặc cảm vẻ ngoài (bận lòng quá ngưỡng cùng với đó nói quá các khiếm khuyết của vẻ ngoài hoặc thậm chí tự tưởng tượng ra chúng) và chứng nghi bệnh.
Theo nhóm chuyên gia có khả năng các bệnh này có chung căn nguyên sinh học hoặc tâm lý. Còn ngày nay vẫn chưa biết sự liên kết cụ thể giữa loạn ám ảnh cưỡng chế và các bệnh trên rỏ ràng ra sao.
Có giả thuyết quả quyết rối loạn ám ảnh cưỡng chế ảnh hưởng tới chúng phê duyệt sự chi phối lẫn nhau giữa hành vi và môi trường, cách nhìn nhận này cụ thể tương phản với các giải nghĩa sinh học. Người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế khá nặng bị ảnh hưởng đông đảo đến đời sống thường ngày.
Điều trị
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế không điều trị ngay lập tức được, nó cần một khoảng thời gian nhất định với sự giúp đỡ của bác sĩ trị liệu và cố gắng của bản thân.
Nghiên cứu lâm sàng trên động vật thực hiện bởi NIMH (học viện quốc gia về sức khỏe tâm thần) và các tổ chức khoa học khác cung cấp thông tin về hiệu quả của trị liệu hành vi và dùng thuốc đối với người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Có bệnh nhân phù hợp dùng thuốc, có bệnh nhân phù hợp trị liệu hành vi hay cả hai, những trường hợp khác có thể dùng thuốc để khống chế các triệu chứng rồi sau đó trị liệu hành vi. Việc lựa chọn phương pháp nào được quyết định bởi bệnh nhân sau khi thảo luận kỹ với bác sĩ trị liệu.
Nếu như người thân trong gia đình hoặc bạn bè mắc bệnh có thể khiến chúng ta cảm thấy khó chịu và bối rối nhưng sẽ là sự giúp ích rất lớn khi chấp nhận họ, cần thông cảm và hiểu rằng bản thân họ đã rất khó khăn trong việc đương đầu với căn bệnh.
Nói chung những lời nhận xét tiêu cực chỉ càng làm tình hình xấu thêm, ngược lại nếu bình tĩnh, với trợ giúp từ phía gia đình thì kết quả điều trị tốt lên nhiều. Khi người mắc bệnh trong độ tuổi đi học điều quan trọng là bố mẹ bệnh nhân cần trao đổi với giáo viên để họ hiểu.
Source: https://tamlynqh.vn
Category: Tâm lý – Trầm cảm